Thông thường, hầu như các trường hợp gãy xương sẽ không xảy ra hiện tượng nhiễm trùng. Tuy nhiên, có trường hợp đặc biệt gãy xương hở và bị nhiễm trùng, đây là trường hợp hiếm gặp nhưng nó lại gây ra vấn đề đáng lo ngại trong việc điều trị và hồi phục của người bệnh. Bài viết sau đây sẽ đề cập tới triệu chứng bị nhiễm trùng sau gãy xương và phương pháp điều trị nhiễm trùng.
Nguyên nhân nhiễm trùng sau gãy xương
Nhiễm trùng xảy ra trong quá trình chấn thương đã bị vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua vị trí gãy xương hở. Hiện tượng nhiễm trùng còn có tên gọi khác là viêm xương chấn thương. Ngoài ra, cũng có trường hợp hiếm gặp đó là vi khuẩn thể xâm nhập vào cơ thể trong quá trình phẫu thuật cố định xương.
Tình trạng gãy xương hở hay gãy chồi xương là khi xương gãy khiến các mảnh xương vỡ xuyên qua da hoặc vết thương mở vào đến tận xương.Khi bị gãy xương hở, vi khuẩn sẽ dễ dàng xâm nhập vào vị trí xương gãy và gây nhiễm trùng sau gãy xương vì hàng rào ngăn các chất lây nhiễm từ bên ngoài, bao gồm cả vi khuẩn là lớp da đã bị tổn thương.
Trường hợp hiếm gặp là người bệnh bị gãy xương nhưng phải thực hiện phẫu thuật cố định xương trước khi bó bột gãy xương.Khi thực hiện phẫu thuật da và mô mềm sẽ được rạch ra để tiếp cận đến xương gãy, có thể gây nguy cơ nhiễm trùng. Tuy nhiên, nguy cơ xảy ra nhiễm trùng ở trường hợp này rất thấp, chỉ chiếm dưới 1% bởi trước khi phẫu thuật, người bệnh sẽ được sử dụng kháng sinh dự phòng, đồng thời phòng phẫu thuật cũng sẽ được tiệt trùng giúp ngăn ngừa tình trạng nhiễm khuẩn.
Những yếu tố nguy cơ gây nhiễm trùng xương
- Khi sự tổn thương xảy ra ở cơ bắp, động mạch, tĩnh mạch hoặc da…nếu sự tổn thương càng nhiều xung quanh vị trí gãy xương thì nguy cơ nhiễm trùng sau gãy xương sẽ càng cao.
- Những người mắc các bệnh mãn tính như: Đái tháo đường, HIV, viêm khớp dạng thấp...làm suy giảm hệ miễn dịch có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng sau khi gãy xương.
- Hút thuốc lá hoặc thường xuyên sử dụng những sản phẩm có chứa nicotine cũng tăng nguy cơ bị nhiễm trùng sau gãy xương.
- Người bị béo phì
- Người thiếu dinh dưỡng hoặc vệ sinh không sạch sẽ... là những yếu tố tăng nguy cơ nhiễm trùng sau gãy xương.
Triệu chứng nhiễm trùng sau gãy xương
- Trường hợp bị nhiễm trùng sau gãy xương thường có các triệu chứng như: xuất hiện cơn đau, cảm giác nóng, đỏ, sưng và viêm ở xung quanh vùng bị tổn thương.
- Nếu nhiễm trùng xảy ra ở gần khớp như các khớp gối, khớp vai... sẽ gây khó khăn khi người bệnh cử động khớp. Ngoài ra, nơi nhiễm trùng có thể hình thànhtúi mủ, mủ có thể chảy ra chỗ tổn thương khi bị vỡ.
- Khi bị nhiễm trùng, người bệnh có thể bị sốt, rét run, vào ban đêm thường đổ mồ hôi.
- Sau khi gặp chấn thương bị gãy xương hở hoặc sau phẫu thuật xương, vết mổ sưng tấy, làm mủ, người bệnh bị sốt cao, rét run… dùng kháng sinh kéo dài nhưng vẫn không giảm tình trạng sốt.
Phương pháp điều trị nhiễm trùng sau gãy xương
Thông thường, những trường hợp gãy xương hở thường cần phải phẫu thuật cấp cứu. Người bệnh được bác sĩ chỉ định dùng kháng sinh sớm nhất, có thể được dùng ngay trong phòng cấp cứu. Sau đó, bác sĩ tiến hành làm sạch vết thương, loại bỏ nhiễm bẩn tối đa ở da, mô mềm... để kiểm soát nguy cơ nhiễm trùng.Vết thương sẽ được cắt lọc và rửa sạch ngay tại phòng mổ, sẽ tùy thuộc vào mức độ tổn thương của người bệnh mà việc cắt lọc và rửa vết thương có thể được thực hiện nhiều lần.
Trường hợp người bệnh bị nghi ngờ nhiễm trùng sau phẫu thuật, ngoài việc sử dụng kháng sinh, bác sĩ có thể cần phẫu thuật bổ sung để giải quyết tình trạng nhiễm trùng.
Trong quá trình phẫu thuật bổ sung, mô nhiễm khuẩn sẽ được bác sĩ lấy để tìm ra loại vi khuẩn gây bệnh. Giai đoạn này có thể sẽ cần phải phẫu thuật nhiều lần. Nếu cần thiết sẽ đặt các dẫn lưu đặc biệt vào vết thương để giúp dẫn mủ ra ngoài. Chuỗi hạt tẩm kháng sinh cũng có thể được sử dụng để cung cấp lượng kháng sinh nồng độ cao cho người bệnh.
Khi đã xác định chính xác vi khuẩn gây bệnh, loại kháng sinh hiệu quả nhất sẽ được bác sĩ lựa chọn điều trị cho bệnh nhân. Thông thường, kháng sinh sẽ được sử dụng trong thời gian từ 6 – 8 tuần.
Điều trị nhiễm trùng xương sau phẫu thuật thường rất phức tạp và cần sử dụng kháng sinh trong thời gian dài, có thể phải kết hợp phẫu thuật nhiều lần. Trường hợp nhiễm trùng nặng, người bệnh có thể phải cắt chi nhiễm trùng để ngăn chặn sự lây nhiễm của vi khuẩn.
Các chấn thương liên quan đến xương có thể áp dụng liệu pháp massage kết hợp với nhiệt để bình phục nhanh hơn. Trên các ghế massage toàn thân cũng được trang bị chế độ nhiệt hồng ngoại để tăng cường khả năng trị liệu.
Các bạn có thể tham khảo ý kiến bác sĩ về tình trạng bệnh lý cụ thể của bản thân, có được massage, cũng như các loại ghế massage, bài massage có thể sử dụng!